Cập nhật mới March 13th, 2018 8:06 AM
Mar 30, 2015 thegioiphatphap Tìm hiểu Phật Pháp 0
LỜI DẪN NHẬP
“Thất niệm là bóng đêm
Chánh niệm là ánh sáng
Đưa tỉnh thức trở về
Cho thế gian tỏ rạng”.
Thiền sư Nhất Hạnh
Chánh niệm là một pháp vô cùng quan trọng. Như ánh sáng xoá tan màn đêm u ám, đem lại sự tỏ rạng cho thế gian, cũng vậy, Chánh niệm sẽ dẹp sạch đêm dài vô minh, khổ não, đem lại ánh sáng trí tuệ an lạc cho chúng sanh. Qua đó chúng ta thấy: muốn được an vui thì phải luôn giữ Chánh niệm. Chỉ có Chánh niệm mới có thể giúp chúng ta vượt qua những khó khăn gian khổ, vượt qua mọi phiền não chướng ngại để đạt đến hạnh phúc an vui như Thiền sư Nhất Hạnh đã dạy:
“Hít vào tâm tĩnh lặng
Thở ra miệng mỉm cười
An trú trong hiện tại
Giờ phút đẹp tuyệt vời”.
Chỉ có giờ phút hiện tại mới là giờ phút đẹp nhất. Nhờ an trú trong hiện tại nên tâm ta được tĩnh lặng. Khi tâm đã tĩnh lặng thì nụ cười mới thật sự là nụ cười an lạc, nụ cười được xuất phát từ một tâm hồn yên tĩnh, thoát tục, siêu phàm.
Có một câu chuyện giữa Đức Phật và các ngoại đạo như sau:
“Các ngoại đạo hỏi Phật:
-Nghe nói đạo Phật là đạo giác ngộ, vậy đạo Phật có phương pháp gì và các vị tu như thế nào mỗi ngày?
Phật đáp:
-Ta đi, đứng, nằm, ngồi, tắm, giặt, ăn, ngủ…
Các ngoại đạo hỏi Phật tiếp:
-Phương pháp đó có gì đặc biệt đâu thưa Ngài, ai lại không đi, không đứng, không nằm, không ngồi, không tắm giặt, không ăn ngủ?
Phật đáp tiếp tục:
-Này các ông, phương pháp đó đặc biệt lắm! Khi đang đi, đang đứng, đang nằm, đang ngồi, đang tắm, đang giặt, đang ăn, đang ngủ… thì ta biết ta đang đi, đang đứng, đang nằm, đang ngồi, đang tắm, đang giặt, đang ăn, đang ngủ… còn đối với các ông thì khi đang đi, đang đứng, đang nằm, đang ngồi, đang tắm, đang giặt, đang ăn, đang ngủ…các ông chẳng biết mình đang đi, đang đứng, đang nằm, đang ngồi, đang tắm, đang giặt, đang ăn, đang ngủ.”[7,3]
Câu chuyện trên cho ta thấy an trú trong Chánh niệm là điều quan trọng nhất trong sự nghiệp tu tập.
Qua những trang kinh, chúng ta thấy Đức Phật luôn sống trong Chánh niệm, từ lúc vào thai mẹ cho đến khi nhập Niết-bàn, không lúc nào Ngài không an trú Chánh niệm. Chẳng những tự thân an trú Chánh niệm, Đức Phật còn thường xuyên nhắc nhở đệ tử của mình an trú trong Chánh niệm. Như trong kinh Di giáo Đức Phật đã dạy: “các thầy tỳ-kheo, cầu thiện tri thức, cầu thiện hộ trì và cầu thiện hổ trợ đều không bằng không quên Chánh niệm. Không quên Chánh niệm thì giặc phiền não hết cách xâm nhập tâm trí. Thế nên các thầy hãy luôn luôn tập trung Chánh niệm lại nơi tâm trí. Mất Chánh niệm là mất công đức. Nếu Chánh niệm có năng lực vững mạnh thì dẫu phải vào trong đám giặc ngũ dục, cũng không bị chúng sát hại; tựa như tướng sĩ lâm trận mà mặc áo giáp lát đồng, thì không còn sợ hãi gì nữa. Đó là hạnh không quên Chánh niệm”[6,24]
Qua đoạn kinh trên, Đức Phật đã sơ lược cho ta thấy tầm quan trọng của Chánh niệm, tai hại của sự mất Chánh niệm, lợi ích của Chánh niệm và khuyên chúng ta phải luôn luôn giữ Chánh niệm.
Để khỏi phụ lòng từ bi cao cả của Phật, chúng ta cần phải tìm hiểu xem Chánh niệm là gì, tai hại của sự thiếu Chánh niệm ra sao, lợi ích của Chánh niệm như thế nào, tu tập Chánh niệm ra sao, tính thiết thực của Chánh niệm đối với bản thân, đối với xã hội. Có tìm hiểu kỹ lưỡng về Chánh niệm, thấy rõ lợi ích của Chánh niệm, chúng ta mới ra sức thực tập Chánh niệm và hướng dẫn mọi người thực tập theo để tất cả cùng đạt được giác ngộ, giải thoát, và luôn luôn được an lạc, hạnh phúc.
Chánh niệm là một đề tài rất phong phú. Kinh điển Bắc tông có cách hiểu về Chánh niệm khác với kinh điển Nam tông. Trong bài luận văn này, người viết chỉ trình bày về Chánh niệm theo một vài kinh thuộc hệ Nam tông.
Trước khi chuyển sang phần nội dung chúng con xin thành kính tri ân:
_Hoà thượng Thượng Như Hạ Ý, Hoà thượng Bổn sư của chúng con, là người luôn luôn đốc thúc, nhắc nhở chúng con trau dồi giới đức và mở mang trí huệ.
_Chư tôn Hoà thượng, Thượng toạ đại đức tăng, giáo thọ Trường Trung Cấp Phật Học Khánh Hoà, những vị đã trao truyền cho con những bài giáo pháp căn bản và những kinh nghiệm quí báu làm nền tảng cho cả quá trình tu học.
_Chư tôn Hoà thượng, Thượng toạ, đại đức tăng, giáo thọ Học Viện Phật Giáo Việt Nam Tại thành phố Hồ Chí Minh đã truyền trao cho chúng con những kiến thức hết sức cần thiết cho việc tu tập cũng như hoằng pháp trong hiện tại và vị lai.
-Hội đồng điều hành Học viện PGVN tại TP HCM
_Hai vị đại thí chủ, người đã cho chúng con phương tiện quý báu để hành đạo là tấm thân tứ đại này, người luôn luôn theo dõi, động viên con trên bước đường tu học.
_Hoà thượng Thượng Đức Hạ Chơn, thượng toạ Trụ trì cùng chư thượng toạ đại đức tăng tại tu viện Quảng Hương Già Lam đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho con có nơi ăn, chốn ở và nơi tu tập trong suốt thời gian theo học tại Học viện.
_Giáo sư Trần Tuấn Mẫn, người đã hết lòng giúp đỡ con hoàn thành tập luận văn này
_Tất cả các vị thiện nam, tín nữ đã góp công góp của giúp con có đủ cơm ăn, áo mặc và phương tiện tu học trong suốt thời gian qua.
Công đức các vị ân nhân ấy đối với con thật là to lớn, con không biết làm sao để đền đáp cho được, chỉ biết nguyện sẽ ra sức tu học và hành đạo, hoằng pháp, lợi sanh để đem công đức này dâng lên cho các vị. Con xin cầu nguyện chư Phật gia hộ cho các vị Thân tâm thường an lạc, Tuệ đăng thường chiếu, Trí tánh thường minh, Bát nhã hoa khai, Đạo tâm bất thối.
B.NỘI DUNG
Chánh niệm là thành phần thứ bảy trong Bát Chánh Đạo. Chánh là Chân chánh, niệm là nhớ nghĩ. Chánh niệm là sự nhớ nghĩ chân chánh, là sự quán chiếu bốn đối tượng: thân, thọ, tâm, pháp, hay nói cách khác Chánh niệm chính là sự ý thức về tất cả các hiện tượng từ vật lý đến tâm lý đang xảy ra ở đây ngay trong giây phút hiện tại. l
2.Nội dung kinh Niệm xứ:
Khi nghiên cứu về Chánh niệm, chúng ta không thể không tìm hiểu sơ lược về Kinh Niệm xứ bởi vì kinh này nói về Chánh niệm tương đối rõ ràng và đầy đủ.
Kinh Niệm xứ nằm trong Trung Bộ kinh (Majjhima Nikaya, kinh số 10), và cũng có trong kinh Hán tạng. Tên Pali của kinh là Satipathana sutta. Sati tức là niệm. Đây là một kinh hết sức quan trọng và cần thiết cho những người học Phật. Tu mà không biết kinh này, không học kinh này thì thật là thiếu xót. Điều ấy cũng giống như người nông phu mà không nhận ra hạt giống hay là không biết cày bừa vậy. Kinh Tứ niệm xứ dạy chúng ta thực tập quán niệm về thân thể, thực tập Chánh niệm về cảm thọ, về tâm hành và về các pháp.
Giờ ta thử tìm hiểu xem Tứ niệm xứ là gì? Tứ là bốn, niệm là quán niệm, xứ là nơi chốn. Tứ niệm xứ có thể được dịch là bốn chỗ quán niệm. Thượng Tọa Thích Chơn Thiện có trình bày về Tứ Niệm xứ như sau:
“Tứ niệm xứ chính là thân niệm xứ, thọ niệm xứ, tâm niệm xứ và pháp niệm xứ. Ta có thể nói Chánh niệm chính là tứ niệm xứ như trong kinh Trung bộ, Thế Tôn dạy:
“Thế nào là Tứ niệm xứ? Này các Tỷ-kheo, ở đây vị Tỷ-kheo sống quán thân nơi thân, tinh cần, tỉnh giác, Chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ nơi các thọ, tinh cần, tỉnh giác, Chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm nơi tâm, tinh cần, tỉnh giác, Chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp nơi pháp, tinh cần, tỉnh giác, Chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời”. (Trung Bộ I, tr. 57).
Quán thân nơi thân có thể được biểu hiện bằng các hình thức sau:.
– Hình thức thứ nhất: Ngồi kiết-già, lưng thẳng, để niệm trước mặt, và theo dõi hơi thở vào, hơi thở ra, hơi thở ra, vào dài ngắn thì biết là dài ngắn, giữ niệm tỉnh giác, hành giả tập biết cảm giác toàn thân khi thở vô, thở ra (“Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô… vị ấy tập”) và tập nhiếp cho thân an tịnh khi theo dõi hơi thở vào, ra và giữ niệm giác tỉnh, hay quán tánh sanh khởi, tánh đoạn diệt trên thân, giữ tâm không chấp thủ, an trú Chánh niệm.
Như vậy là một hình thức quán thân nơi thân. (Theo Sđd., tr. 57)
– Hình thức thứ hai: Khi hành giả đi, đứng, nằm ngồi, làm việc, hành giả biết mình đang đi, đứng…, đang làm việc và giữ Chánh niệm tỉnh giác, không chấp trước bất cứ vật gì ở trên đời.
– Hoặc hành giả quán sát thân mình từ lòng bàn chân lên đến tóc (gồm có ba mươi hai thứ sai biệt), biết thân chỉ là một chiếc túi bất tịnh đựng đủ ba mươi hai thứ bất tịnh, nhưng vẫn giữ Chánh niệm tỉnh giác, không nương tựa, chấp trước một vật gì ở đời. Hoặc hành giả quán tánh sanh diệt trên thân và giữ Chánh niệm tỉnh giác. (Trung Bộ I, Sđd., tr. 58).
– Hoặc quán thân này do bốn đại (địa, thủy, hỏa, phong) sanh, chỉ là do bốn đại cấu hợp thành, hoặc quán tánh sanh diệt nơi thân, và giữ Chánh niệm tỉnh giác, không chấp thủ, nhiếp phục tham ưu.
– Hình thức thứ ba: Quán sát bất tịnh nơi thân hoặc quán thi thể ở nghĩa địa với các tướng sình, thối, dòi, vữa v.v… hoặc quán tánh sanh diệt nơi thân và giữ Chánh niệm tỉnh giác, nhiếp phục tham ưu, không nương tựa, chấp trước một vật gì ở đời.
Như vậy là tu tập quán thân nơi thân. (Theo Sđd., tr. 58).
Khi ở nơi thân và tâm khởi lên cảm thọ lạc, khổ, hỷ, ưu, xả hay bất khổ bất lạc thì hành giả biết là có cảm thọ khởi lên như vậy. Biết rằng đó là cảm thọ thuộc vật chất hay không thuộc vật chất, là cảm thọ ở trong hay ở ngoài, và giữ Chánh niệm tỉnh giác, quán tánh sanh diệt của các thọ mà không khởi niệm chấp trước nương tựa bất cứ một vật gì trên đời.
Như vậy là sống quán thọ nơi các thọ. (Theo Trung Bộ I, Sđd., tr. 59).
c.Thế nào là quán tâm nơi tâm?
Hành giả theo dõi tâm mình, biết rằng tâm có tham khi tham tâm khởi lên, biết rằng tâm có sân khi tâm sân khởi, biết rằng tâm có si, v.v… hay là tâm không có tham, không có sân, không có si, biết rằng tâm đang quảng đại hay hẹp hòi, biết rằng tâm có định hay không, hành giả quán sanh diệt của tâm và giữ Chánh niệm tỉnh giác, không chấp thủ một vật gì ở đời.
Như vậy là quán tâm ở nơi tâm. (Sđd., tr. 59).
Hành giả theo dõi năm triền cái để thấy rõ tâm mình đang vướng mắc ở triền cái nào. Hoặc quán tánh sanh diệt của các triền cái. Hoặc quán pháp ở nơi Ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), quán Ngũ uẩn tập khởi, Ngũ uẩn đoạn diệt với Chánh niệm, tỉnh giác, nhiếp phục tham ưu, không chấp thủ.
Hoặc quán pháp trên Lục căn, Lục trần, do duyên hợp của căn trần kiết sử (tham, sân) khởi, hành giả biết các kiết sử khởi lên trong mình và giữ Chánh niệm tỉnh giác.
Hoặc quán pháp trên Thất giác chi, xem trong thân mình hiện đang có giác chi nào (hoặc đã sanh, hoặc chưa sanh…) và giữ Chánh niệm, tỉnh giác.
Hoặc quán pháp trên Tứ Thánh đế: đây là Khổ, đây là Khổ tập, đây là Khổ diệt, đây là Khổ diệt đạo, quán tánh sanh diệt của các pháp và giữ Chánh niệm tỉnh giác, không chấp trước bất cứ vật gì ở đời. Như thế là tu tập quán pháp ở nơi các pháp”.[8,368]
II..ĐẶC TÍNH CỦA CHÁNH NIỆM:
“1.Chánh niệm là một tấm gương soi thực tại. Nó phản ánh những gì đang có mặt trong giây phút hiện tại này y như nó đang xảy ra, không có thiên kiến.
2.Chánh niệm là một sự quán sát không phán xét. Nó là một khả năng quán sát nhưng không phê bình của tâm. Nhờ vậy, ta có thể nhìn sự vật mà không chỉ trích, không lên án. Không có một điều gì làm cho ta ngạc nhiên. Ta chỉ đơn giản quân bình chú ý vào sự việc như nó thật sự là, trong trạng thái tự nhiên của nó. Ta không cần phải quyết định và cũng không phê phán.
Chúng ta không thể nào quán sát những gì đang xảy ra trong ta nếu không cùng một lúc chấp nhận sự có mặt của nó trong tâm mình. Điều này đặc biệt đúng đối với những tâm thức tiêu cực. Muốn quan sát nỗi sợ của mình, trước nhất ta phải chấp nhận là mình sợ hãi. Chúng ta không thể nào khám xét được nỗi khổ của ta nếu ta không chịu chấp nhận nó trọn vẹn. Những nhức nhối, buồn lo, bực tức, và tất cả những cảm thọ bất an khác cũng y như vậy. Chúng ta không thể nào quan sát được một sự việc gì trọn vẹn nếu ta cứ lo chối bỏ sự có mặt của nó. Bất cứ một kinh nghiệm nào đang có mặt trong ta, Chánh niệm sẽ chấp nhận nó.
Để rõ đặc tính này chúng ta có thể đọc qua câu chuyện do HT Nhất Hạnh kể lại như sau:
“Một hôm, có vị vua nọ nghĩ rằng: “Giá mà vua trả lời được ba câu hỏi thì vua sẽ không bao giờ bị thất bại trong bất cứ công việc nào. Ba câu hỏi ấy là:
1/ Làm sao để biết được thời gian nào là thời gian thuận lợi nhất cho mỗi công việc?
2/ Làm sao để biết được nhân vật nào là nhân vật quan trọng nhất mà ta phải chú trọng?
3/ Làm sao để biết được công việc nào là công việc cần thiết nhất mà ta phải thực hiện?
Nghĩ thế vua liền ban chiếu ra khắp trong bàn dân thiên hạ, hứa rằng sẽ ban thưởng trọng hậu cho kẻ nào trả lời được ba câu hỏi đó.
Các bậc hiền thần đọc chiếu liền tìm đến kinh đô nhưng mỗi người lại dâng lên vua một câu trả lời khác nhau. Vì các câu trả lời khác nhau cho nên nhà vua không đồng ý với vị nào cả và chẳng ban thưởng cho ai hết. Sau nhiều đêm suy nghĩ vua quyết định chất vấn một ông Đạo. Ông Đạo này nổi tiếng là người có giác ngộ. Vua muốn tìm lên trên núi gặp ông Đạo và hỏi ba câu hỏi kia vì vị Đạo sĩ này chưa bao giờ chịu xuống núi và nơi ông ta ở chỉ có những người dân nghèo. Chẳng bao giờ ông chịu tiếp những người quyền quí. Nhà vua cải trang làm thường dân. Khi đi đến chân núi, vua dặn vệ sĩ đứng chờ ở dưới và một mình vua trong y phục một thường dân trèo lên am của ông Đạo. Nhà vua gặp ông Đạo đang cuốc đất trước am. Khi trông thấy người lạ ông Đạo gật đầu chào rồi tiếp tục cuốc đất. Ông Đạo cuốc đất một cách nặng nhọc bởi ông Đạo đã già yếu. Mỗi khi cuốc lên được một tảng đất hoặc lật ngược được tảng đất ra thì ông lại thở hổn hển. Nhà vua tới gần ông Đạo và nói: “Tôi tới đây để xin ông Đạo trả lời giúp ba câu hỏi: làm thế nào để biết đúng thì giờ hành động, đừng để cơ hội qua rồi sau phải hối tiếc? Ai là những người quan trọng nhất mà ta phải chú ý tới nhiều hơn cả? và công việc nào quan trọng nhất cần thực hiện trước?”.
Ông Đạo lặng nghe nhà vua nhưng không trả lời. Ông chỉ vỗ vai nhà vua và cúi xuống tiếp tục cuốc đất. Nhà vua nói: “Ông Đạo mệt lắm rồi, thôi đưa cuốc cho tôi, tôi cuốc một lát”. Vị Đạo sĩ cảm ơn, trao cuốc cho vua rồi ngồi xuống đất nghỉ mệt. Cuốc xong được hai vòng đất thì nhà vua ngừng tay và lập lại câu hỏi. Ông Đạo vẫn không trả lời, chỉ đứng dậy và đưa tay ra đòi cuốc, miệng nói: “Bây giờ bác phải nghỉ, đến phiên tôi cuốc”, nhưng nhà vua thay vì trao cuốc lại tiếp tục cúi xuống cuốc đất.
Một giờ rồi hai giờ đồng hồ đi qua, rồi mặt trời bắt đầu khuất sau đỉnh núi. Nhà vua ngừng tay, buông cuốc và nói với ông Đạo:
“Tôi tới để xin ông Đạo trả lời cho mấy câu hỏi, nếu ông Đạo không trả lời cho tôi câu nào hết thì xin cho tôi biết để tôi còn về nhà”.
Chợt lúc đó, ông Đạo nghe tiếng chân người chạy đâu đây bèn nói với nhà vua: “Bác thử xem có ai chạy lên kìa”, nhà vua ngó ra thì thấy một người có râu dài đang chạy lúp xúp sau mấy bụi cây, hai tay ôm bụng, máu chảy ướt đẫm cả hai tay. Ông ta cố chạy tới chỗ nhà vua và ngất xỉu giữa đất, nằm im bất động, miệng rên rỉ. Vua và ông Đạo cởi áo người đó ra thì thấy có một vết đâm sâu nơi bụng. Vua rửa chỗ bị thương thật sạch và xé áo của mình ra băng bó vết thương nhưng máu thấm ướt cả áo. Vua giặt áo và đem băng lại vết thương. Cứ như thế cho đến khi máu ngưng chảy. Lúc bấy giờ người bị thương mới tỉnh dậy và đòi uống nước.
Vua chạy đi múc nước suối cho ông ta uống, khi đó mặt trời đã khuất núi và bắt đầu lạnh. Nhờ sự tiếp tay của ông Đạo, nhà vua khiêng người bị nạn vào trong am và đặt nằm trên giường của ông Đạo. Ông ta nhắm mắt nằm im. Nhà vua cũng mệt quá vì leo núi và cuốc đất cho nên ngồi dựa vào cánh cửa mà ngủ thiếp đi. Vua ngủ ngon cho đến nỗi khi nhà vua thức dậy thì trời đã sáng và phải một lúc lâu sau vua mới nhớ được là mình đang ở đâu và đang làm gì. Vua nhìn về phía giường thì thấy người bị thương cũng đang nhìn mình chòng chọc, hai mắt sáng trưng. Người đó thấy vua tỉnh giấc rồi và đang nhìn mình thì cất giọng rất yếu: “Xin bệ hạ tha tội cho thần!” , vua đáp: “Ông có làm gì nên tội đâu mà phải tha?”, người kia đáp: “Bệ hạ không biết hạ thần nhưng hạ thần biết bệ hạ. Hạ thần là người thù của bệ hạ. Hạ thần đã thề sẽ giết bệ hạ cho bằng được, bởi vì ngày xưa trong chinh chiến Bệ hạ đã giết mấy người anh và còn tịch thu gia sản của hạ thần nữa. Hạ thần biết rằng bệ hạ sẽ lên núi này một mình để gặp ông Đạo sĩ nên đã mai phục quyết tâm giết bệ hạ trên con đường xuống núi. Nhưng đến tối mà bệ hạ vẫn chưa trở xuống, nên hạ thần đã rời chỗ mai phục mà đi lên núi tìm bệ hạ. Hạ thần lại gặp bọn vệ sĩ. Bọn này nhận mặt được hạ thần cho nên đã xúm lại đâm hạ thần. Hạ thần trốn được, chạy lên đây. Nếu không có bệ hạ thì chắc hạ thần đã chết vì máu ra nhiều quá. Hạ thần quyết tâm hành thích bệ hạ mà bệ hạ lại cứu sống được hạ thần, hạ thần hối hận quá. Giờ đây nếu hạ thần còn sống thì hạ thần nguyện làm tôi mọi cho Bệ hạ suốt đời và hạ thần cũng sẽ bắt các con hạ thần làm như vậy. Xin bệ hạ tha tội cho thần”.
Thấy mình hòa giải được với kẻ thù một cách dễ dàng, nhà vua rất vui mừng. Vua không những hứa tha tội cho người kia mà còn hứa sẽ trả lại gia sản cho ông ta và gởi ngay thầy thuốc cùng quân hầu tới săn sóc cho ông ta lành bệnh.
Sau khi cho vệ sĩ khiêng người bị thương về, nhà vua trở lên tìm ông Đạo để chào. Trước khi ra về vua còn lập lại lần cuối ba câu hỏi của vua. Ông Đạo đang quỳ gối xuống đất mà gieo những hạt đậu trên những luống đất đã cuốc sẵn hôm qua. Vị đạo sĩ đứng dậy nhìn vua đáp: “Nhưng ba câu hỏi của vua đã được trả lời rồi mà”. Vua hỏi trả lời bao giờ đâu nào. Ông đạo đáp: “Hôm qua nếu vua không thương hại bần đạo già mà ra tay cuốc dùm mấy luống đất này thì khi ra về vua đã bị kẻ kia mai phục hành thích mất rồi và nhà vua sẽ tiếc là đã không ở lại cùng ta. Vì vậy thời gian quan trọng nhất là thời gian vua đang cuốc đất, nhân vật quan trọng nhất là bần đạo đây và công việc quan trọng nhất là công việc giúp bần đạo. Rồi sau đó khi người bị thương nọ chạy lên, thời gian quan trọng nhất là thời gian vua chăm sóc cho ông ta, bởi vì nếu vua không băng vết thương cho ông ta thì ông ta sẽ chết và vua không có dịp hoà giải với ổng, cũng vì thế mà ông ta là nhân vật quan trọng nhất và công việc vua làm để băng bó vết thương là quan trọng nhất. Xin vua hãy nhớ kỹ điều này nhé: chỉ có một thời gian quan trọng mà thôi, đó là thời gian hiện tại, là giờ phút hiện tại, giờ phút hiện tại quan trọng bởi vì đó là thời gian duy nhất trong đó ta có thể làm chủ được ta. Và nhân vật quan trọng nhất là kẻ đang cụ thể sống với ta, đang đứng trước mặt ta, bởi vì ai biết được mình sẽ đương đầu làm việc với những kẻ nào trong tương lai. Công việc quan trọng nhất là công việc làm cho người đang cụ thể sống bên ta, đang đứng trước mặt ta được hạnh phúc. Bởi vì đó là ý nghĩa chính của đời sống“. [4, 93]
Hành giả vừa là người quán chiếu mà cũng vừa là người tham dự. Nếu ta theo dõi cảm thọ hoặc cảm xúc của mình, thì cũng ngay trong lúc ấy ta đang cảm nhận nó. Chánh niệm không phải là một chức năng thuộc về tri thức. Nó chỉ thuần tuý là một ý thức. Chánh niệm rất vô tư và khách quan, nhưng không có nghĩa là nó dửng dưng hay lạnh lùng, ngược lại nó là một kinh nghiệm sống rất sinh động, một sự quán chiếu có tham dự trong quá trình của sự sống.
III.VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ CỦA CHÁNH NIỆM
Chánh niệm là cốt tủy của sự tu tập trong đạo Bụt, và tông phái nào cũng lấy phép thực tập Chánh niệm làm căn bản. Thật vậy, chúng ta thấy rõ ràng từ Tịnh độ tông cho đến mật tông thiền tông, luật tông, dù là tông phái nào đi nữa, nếu muốn tu tập đạt kết quả đều cần phải có Chánh niệm. Giả sử tu Tịnh độ mà không có Chánh niệm, nghĩa là không chú ý vào câu Phật hiệu mà cứ cho tâm chạy nhảy thoải mái thì biết chừng nào mới được nhất tâm bất loạn. Đối với hành giả trì chú cũng vậy, nếu không có Chánh niệm, cứ để tâm rong ruổi mãi thì làm sao có thể đạt đến chỗ tâm và chú là một thể thống nhất. Hoặc như hành giả trì luật, nếu không có Chánh niệm thì khi phạm giới không biết mình đang phạm giới thì làm sao có thể giữ cho giới thể của mình sạch như băng tuyết được. Qua đó ta thấy Chánh niệm là cốt tuỷ của sự tu tập trong đạo Phật.
Tóm lại, Chánh niệm là khởi điểm, tụ điểm, cao điểm của thông điệp Đức Phật đúng như NYANAPONIKA THERA đã viết: “Nếu trên kia chúng ta đã bảo rằng tâm học là khởi điểm, tụ điểm, cao điểm của thông điệp Đức Phật, bây giờ chúng ta có thể bảo thêm rằng Chánh niệm cũng chiếm chính cái vị trí như thế trong tâm học Phật giáo.”[18, 33]
2.Vai trò của Chánh niệm trong quá trình tu tập.
Khi ta thất niệm vì ta không có mặt nên những cái khác cũng không có mặt. Khi ta có mặt thì tất cả những thứ ấy có mặt. Vì thế sự có mặt của ta đem lại sự có mặt cho cả vũ trụ, sự sống và tất cả những thực thể mầu nhiệm quanh ta. Chánh niệm là năng lượng có khả năng nhận diện được những gì đang xảy ra trong ta và chung quanh ta. Khi năng lượng ấy có mặt thì thân và tâm ta hợp nhất và ta thực sự có mặt trong giây phút hiện tại để sống sâu sắc hằng ngày. Tâm ta không bị những tiếc nuối về quá khứ hoặc những lo lắng về tương lai lôi kéo. Ta có thể tiếp xúc được với những nhiệm mầu của sự sống, có khả năng nuôi dưỡng và trị liệu ta. Ta cũng có năng lượng Chánh niệm để nhận diện, ôm ấp và chuyển hóa những khổ đau trong ta. Ta thực tập để chế tác năng lượng Chánh niệm khi thở, khi đi, khi đứng, khi nằm, khi ngồi và khi làm việc. Chánh niệm xác nhận sự có mặt của đối tượng, của người, của vật khác ở ngoài ta. Đó là những vật như bông xứ, cây mận, con chim, bầu trời. Đối tượng đó cũng chính là cha, mẹ, thầy, cô, anh chị em và bạn bè, hàng xóm của ta. Nếu ta không có mặt thì những đối tượng đó cũng không có mặt. Do ta có mặt nên tất cả các đối tượng ấy có mặt theo. Sự sống chỉ thật sự có mặt khi chúng ta tiếp xúc với chúng trong Chánh niệm do đó có thể nói Chánh niệm làm sự sống có mặt trong giây phút hiện tại.
“Khi tiếp xúc được với sự sống thì chính ta được nuôi dưỡng mà đối tượng tiếp xúc của ta cũng được nuôi dưỡng. Đối tượng kia có thể là cây, là lá, là dòng sông, là em bé, là người mình thương, hay là người mình ghét. Khi ta có mặt trong ý thức, vật kia có sự chú ý của ta cũng sẽ có mặt. Chánh niệm là sự chú ý. Khi có Chánh niệm, nhìn vào một khu rừng xanh mát thì ta biết rằng khu rừng này đang xanh mát. Nhìn đủ sâu sắc thì ta biết phải làm gì để giữ cho rừng này tiếp tục xanh mát. Có những khu rừng bắt đầu chết vì các độc tố con người tạo ra. Nếu khu rừng đang vàng úa thì ta biết rằng phải làm gì để khu rừng có thể tươi mát trở lại. Vì vậy sự có mặt của Chánh niệm sẽ đem tới niềm an ủi và cách trị liệu cho đối tượng. Đối tượng của Chánh niệm có thể là một người hay một sự vật. Người kia đang sầu héo, đang buồn bã, đang nhức nhối mà nếu có mặt, có Chánh niệm, thì chúng ta sẽ nhìn thấy rõ tình trạng sầu héo và buồn khổ ấy. Và Chánh niệm có thể giúp chúng ta biết nói gì, làm gì (hay không nói gì, không làm gì) cho người đó bớt khổ và trở nên tươi tỉnh lại. Nếu người đó đang sống bình thường, không sầu khổ, không bệnh tật, mà chúng ta có mặt với Chánh niệm, thì người đó có thể có hạnh phúc……
Chánh niệm không phải chỉ nuôi dưỡng đối tượng mà cũng để nuôi dưỡng chính mình. Thiền sư ngắm hoa đào, không những làm hoa đào rạng rỡ mà còn làm cho người nhìn hoa rạng rỡ. Nhìn hoa đào không có Chánh niệm thì hoa không rạng rỡ được. …
Vậy Chánh niệm là năng lượng làm cho ta có mặt, làm cho vật kia hay người kia có mặt, và nuôi dưỡng đối tượng kia đồng thời nuôi dưỡng mình”.[5, 228]
Khi ta đau khổ, chỉ cần có Chánh niệm về sự đau khổ ấy thì sự đau khổ đó sẽ giảm dần và biến mất. Khi ta cô đơn mà không ai để ý tới ta thì ta sẽ khổ thêm rất nhiều nhưng nếu lúc ấy có một ai đó ngồi lại với ta trong Chánh niệm thì nỗi khổ ấy sẽ lập tức biến mất. Do đó có thể nói thực tập Chánh niệm bên người đang đau khổ cũng là một phương pháp thực tập lòng từ bi. Khi ta thấy một người nào đó đang đau khổ, ta có thể giúp họ bằng cách đến ngồi cạnh họ, nhìn họ và nói chuyện với họ trong Chánh niệm thì nỗi đau khổ của người ấy sẽ giảm đi. Nếu lúc ấy ta không có Chánh niệm hoặc Chánh niệm quá yếu ớt thì ta sẽ không đủ khả năng làm người ấy bớt khổ. Người đang lìa đời cũng rất cần đến sự có mặt của ta. Trong giờ phút lâm chung người ấy bị sự sợ hãi, cô đơn làm cho đau khổ thêm gấp bội nhưng nếu có một người có Chánh niệm đến tiếp xúc với người ấy, ban rải tình thương cho người ấy, niệm Phật cầu Phật tiếp dẫn người ấy thì người ấy sẽ ra đi một cách nhẹ nhàng. Mặc khác, nhờ Chánh niệm, chúng ta mới thấy rõ nguồn gốc của khổ đau của chính mình và người khác và thấy cả cách diệt trừ khổ đau ấy nên chúng ta có thể nhẹ nhàng dứt trừ khổ đau. Do đó có thể nói Chánh niệm làm vơi đi khổ đau
d.Chánh niệm tức là sự quán chiếu
Nhờ Chánh niệm chúng ta có thể nhìn sâu vào bản chất của các sự vật hiện tượng. Ví dụ nhìn sâu vào bông hoa hay một người nào đó ta có thể thấy được bản chất của những mầu nhiệm và khổ đau trong ấy. Đó là quán chiếu. Thấy được tự tánh của một bông hoa là thấy được tự tánh của vạn pháp nghĩa là thấy được bản chất chân thật của sự vật. Bản chất chân thật của bông hoa là bản chất vô sinh, vô thường, vô ngã và tương tức. Ta thấy thật chứ không phải chỉ thấy qua những danh từ này. Mục đích của quán chiếu là để thấy được tự tánh. Đối tượng để quán chiếu có thể là chính mình. Ta không biết mình là ai, không biết chỗ yếu mạnh của chính mình, không biết mình có một kho châu báu, không biết mình có nhiều nội kết, tất cả đều do không biết tự tánh của chính mình. Phản quan, quan tự tánh chính là đem Chánh niệm trở về nhìn sâu và kỹ chân tánh mình
Trong cuộc sống hàng ngày, nếu không có Chánh niệm thì tâm ta lúc nào cũng rong ruổi ở tận đâu đâu ít có khi nào nó chịu trở về. Chúng ta lúc nào cũng như người bị lạc đường cứ đi loang quanh tìm kiếm mãi mà chẳng tìm ra một chỗ để dừng chân. Chính vì vậy, trong kinh: “thân hành niệm xứ” (Trung Bộ), Đức Phật dạy chúng ta trở về với thân, nhận diện tất cả các thành phần và động tác của thân. Trước hết, ta nhận diện thân ta trong các tư thế đi, đứng, nằm, ngồi. Đó là một sự trở về đích thực. Sự trở về trong Chánh niệm đó tạo ra cho chúng ta nguồn an lạc, hạnh phúc không cần tìm đâu xa. Khi đạt được Chánh niệm trong tâm thì mọi biểu hiện, cử chỉ đều giúp ta trở về. Bởi vậy, Chánh niệm là trở về với chính mình, với gốc rễ của mình, với tâm linh của mình. .
Vì vậy có thể nói Chánh niệm chính là sự trở về.
Mặc khác, “Trong lúc chú niệm, hành giả không thể dừng lại để mong muốn điều gì, vì vậy tham ái được đoạn trừ. Khi đang chú niệm thì sân hận cũng được đoạn trừ, vì không bao giờ có trường hợp là đang Chánh niệm mà sân hận lại bộc phát. Khi đang chú niệm, tâm hành giả không thể mơ hồ, si ám. Như vậy, do tâm thoát khỏi tham, sân, si nên hành giả có trạng thái tâm sáng suốt”.[12]
Việc Chánh niệm có thể giúp chúng ta ngăn chặn không cho phiền não phát sanh cũng có thể được thấy rõ khi chúng ta phải chia lìa vĩnh viễn với người thân. Cuộc đời vốn vô thường, không có ai là tránh khỏi sự chia lìa, âm dương cách biệt. Vào lúc ấy nếu không có Chánh niệm thì chúng ta sẽ vô cùng đau khổ vì nghĩ rằng từ đây về sau chúng ta sẽ mãi mãi không còn gặp lại người mà ta vô cùng yêu thương hay tôn kính. Nhưng nếu lúc ấy chúng ta có Chánh niệm thì chúng ta sẽ hiểu được rằng tất cả mọi vật trên thế gian này chỉ là huyễn hoá, do duyên hợp mà giả có, sanh không thật sanh, diệt không thật diệt và nhờ thấy rõ bản tánh của các pháp là như vậy nên chúng ta không đau khổ trước cảnh chia ly hoặc có chăng nữa thì cũng rất ít, không đến nổi phải rầu rĩ, khóc than, bỏ ăn, bỏ ngủ, xỉu lên, xỉu xuống như những người không có Chánh niệm. Kinh trung bộ diễn tả việc ấy như sau: “lúc ấy những Tỷ-kheo chưa giải thoát tham ái, có vị thì khóc than với cánh tay duỗi cao, có vị thì khóc than, thân nằm nhoài dưới đất, lăn lộn qua lại: “Thế Tôn nhập diệt quá sớm, Thiện Thệ nhập diệt quá sớm, Pháp nhãn biến mất ở trên đời quá sớm”. Còn những Tỷ-kheo đã diệt trừ tham ái, những vị này an trú Chánh niệm, tỉnh giác nhẫn nại suy tư: “Các hành là vô thường, làm sao tránh khỏi sự kiện ấy?”[1,676] và nhờ giữ Chánh niệm các vị ấy không bị đau đớn quá độ như những vị không có Chánh niệm.
Qua những dẫn chứng trên ta có thể nói rằng Chánh niệm ngăn chặn, không cho phiền não phát sanh.
Nhờ tu tập Chánh niệm, chúng tỳ-kheo sẽ được cường thịnh. Điều này được nói đến trong đoạn kinh sau: “Này các Tỷ-kheo, khi nào chúng Tỷ-kheo tự thân an trú Chánh niệm, khiến các bạn đồng tu thiện chí chưa đến muốn đến ở, và các bạn đồng tu thiện chí đã đến ở, được sống an lạc, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm”.[1, 548]
Chánh niệm biến xả thọ thành lạc thọ và trần cảnh thành tiên cảnh. Nếu không có Chánh niệm thì chúng ta không thể nhận được sự an lạc từ những thứ mà chúng ta cho là quá tầm thường như một đám mây, một đoá hoa, một dòng sông, một em bé…nhưng chỉ cần có Chánh niệm thì khi tiếp xúc với những thứ ấy chúng ta có thể phát sanh một niềm an lạc vô biên. Với Chánh niệm, khi tiếp xúc bất cứ thứ gì chúng ta đều cảm thấy chúng trở nên tươi đẹp và đáng yêu một cách lạ kỳ. Chẳng hạn khi nhìn một bông hoa với Chánh niệm thì ta sẽ thấy nó vô cùng xinh đẹp, chúng ta sẽ rất trân trọng nó, yêu quý nó. Khi chúng ta làm những việc tầm thường như quét nhà, giặc đồ, rửa chén…nếu không có Chánh niệm thì chúng ta sẽ cảm thấy những công việc ấy rất vô vị, nhàm chán nhưng nếu ta làm những việc ấy với Chánh niệm thì sự kỳ diệu sẽ đến với ta. Ta sẽ cảm thấy vô cùng thích thú và có thể làm mãi mà không hề biết chán. /.
Thích Tâm Tịnh
Dec 04, 2016 0
Nov 04, 2016 0
Aug 03, 2015 0
Jan 26, 2018 0
Nov 14, 2017 0
Jul 14, 2017 0
Jul 11, 2017 0
Mar 13, 2018 0
I- Tổng quan về khu du lịch Trúc Lâm Viên ở Đà Lạt: Được khởi công xây dựng từ năm 2006, Trúc Lâm Viên đã chuyển mình từ một vùng đồi hoang sơ...Apr 20, 2016 0
Ở VN ta các chùa thường hay thờ Phật, thờ...Mar 25, 2016 0
Thế giới bây giờ đang trải qua thời kỳ đa...Mar 21, 2015 0
Kính thưa cùng với Thầy! Vào thư con xin Thầy...Jan 13, 2015 0
Bạn có thể nhìn thấy lá cờ Phật giáo 5 màu...Jan 13, 2015 0
Kính thưa chư vị đồng học, Hôm qua chúng tôi...